Trước hết, chúng ta nên hiểu thế nào là “Phong tục” ?
“Phong” là nề nếp đã lan truyền rộng rãi và “tục”
là thói quen lâu đời. Do vậy, nói đến phong tục là bao hàm mọi mặt của xã hội
và có những phong tục trở thành luật tục, ăn sâu bén rễ trong nhân dân rất bền
chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc
ta có nhiều thuần phong mỹ tục rất cần thiết cho đạo lý làm người, kỷ cương xã
hội.
Xây dựng nếp sống mới không chỉ đơn thuần bằng ý muốn chủ
quan mà phải biết dựa vào thuần phong mỹ tục vào nếp sống mới. Tuy nhiên có những
phong tục cổ xuất xứ từ thực tiễn trong cuộc sống thời xưa, đến nay không hợp
thời nữa nên ta cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ đó vận dụng cho thích hợp
với hiện tại hoặc loại bỏ nó đi.
1. Chạm ngõ ( ngày xưa được gọi là Lễ vấn danh)
“Chạm ngõ” (hay lễ “Dạm”) là cái lễ đầu tiên
nhà trai mang đến nhà gái nhằm tìm chỗ đi lại, hỏi rõ tên tuổi người con gái (vấn
danh) . Người ta hỏi tuổi người con gái rồi đối chiếu với tuổi người con trai
xem có “hoà hợp” hay “xung khắc”. Đây là một việc làm mà người xưa rất coi trọng
cũng như việc xem xét gia đình hai bên có “Môn đăng hộ đối” hay không để quyết định
có hay không việc thành thân cho đôi lứa sau này. Trong khi “Công, dung, ngôn,
hạnh” lại là tiêu chuẩn hàng đầu, cái cần nhất khi nhìn nhận một người con gái
thì các gia đình có nền nếp bao giờ cũng quan tâm. Ngày nay, lễ “Chạm ngõ” vẫn được
xem như một thủ tục cần thiết, không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi. Đây là
dịp để hai gia đình “Chỗ người lớn” chính thức gặp nhau. Nhà trai ngỏ lời xin
phép nhà gái cho “bọn trẻ” được công khai đi lại, tìm hiểu nhau. Người ta vẫn
giữ nếp chọn ngày, giờ đẹp (thường là ngày hoàng đạo) cho công việc quan trọng
này.
2. Thách cưới
Thách cưới là một lệ tục lạc hậu rơi rớt lại,
trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái. Có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi
thiệt thòi nhất lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một
đời chồng, làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên phận hẩm duyên hiu.
Ngày nay, tục thách cưới gần như đã không còn nữa, mà đó chỉ còn là một thủ tục
để nhà trai tỏ lòng tôn trọng nhà gái. Cho nên trước khi ăn hỏi, nhà trai đến
nhà gái xin ý kiến về vấn đề này, thường thì nhà gái không nêu yêu cầu cụ thể
mà nói “Tuỳ thuộc vào nhà trai“, âu cũng là nét đẹp văn hoá thể hiện tình cảm
và mối giao hoà giữa nhà trai và nhà gái.
3. Ăn hỏi
Đồ lễ ăn hỏi có rất nhiều thứ tuy nhiên nó tuỳ
thuộc vào mỗi gia cảnh. Ví dụ như bánh cốm, bánh su sê, chè, thuốc lá, rượu, hạt
sen, trầu cau, ... có gia đình còn có lợn sữa quay. Lễ vật nhiều, ít cũng như đã
nói ở trên nhưng không thể thiếu bánh “Su sê”, nguyên xưa gọi là bánh “Phu
thê”, một số địa phương nói chệch thành bánh “Su sê”. Sở dĩ gọi là bánh “Phu
thê” (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa: Ngoài
thì vuông tròn, trong lại mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm. Bánh cũng là
biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dưng ngũ hành: ruột trắng,
nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.
4. Lễ xin dâu có ý nghĩa gì?
ễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu nhà trai
cử một hoặc hai người thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu,
một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng
đón tiếp. Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình
có thể thỏa thuận với nhau miễn bớt lễ này hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm
một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau: Khi đoàn đón dâu đến
ngõ nhà gái, đoàn dừng lại chỉnh đốn trang y, sắp xếp lại thứ tự ai đi trước,
ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng một người đội lễ (một mâm quả
trong đó đựng trầu, cau, rượu...) vào trước đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi
trở ra đưa đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này tiến hành rất nhanh.
Thông thường nhà gái vái chào đáp lễ xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị
huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.
5. Tổ chức lễ cưới (thường là cùng với tiệc cưới)
gày nay, các đám cưới đã bắt đầu tổ chức với
phong cách mới với hình thức tiệc trà theo nếp sống mới, hay tiệc đứng, tiệc mặn.
Tiệc cưới là buổi tiệc của gia đình tổ chức để mời họ hàng, bè bạn, người thân đến
để chung vui đồng thời là lễ ra mắt của cô dâu, chú rể đối với họ hàng, bạn bè
và người thân của họ. Bữa tiệc này thường được tổ chức rất trang trọng. Tiệc cưới
được nhà trai và nhà gái tổ chức riêng hay chung tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và sự
lựa chọn của chính họ.
6. Lễ lại mặt có ý nghĩa gì?
Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ
chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi
chào họ hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang nhà
chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà thông
gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường
tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ)
tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ
khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình.
Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại
mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại,
vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám
trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy
bản sẽ có mấy giọt máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong
dùng "Nước vỏ Lựu", "Máu mào gà" hòng lường gạt làng chơi tưởng
nhầm là Kiều vẫn còn trinh).
Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn
cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện
cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:
- Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ
cũng như bố mẹ mình.
-Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ
buổi đầu, tình cảm được nhân đôi.
- Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức
hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống
cho đôi trẻ trong tương lai.